VĂN BẢN 1: TRAO DUYÊN (Trích Truyện Kiều- Nguyễn Du)

Thứ sáu, 6/12/2024, 21:0
Lượt đọc: 895
Ảnh đại diện

 

VĂN BẢN 1: TRAO DUYÊN

(Trích Truyện Kiều- Nguyễn Du)

  1. TRƯỚC KHI ĐỌC.

    II. ĐỌC HIỂU VĂN BẢN

    1. Xác định ngôi kể và dấu hiệu để nhận biết

     

    Ngôi kể

    Dấu hiệu nhận biết

     

     

    Thứ ba

    - Dấu hiệu 1. Sự phân biệt giữa: + lời của người kể chuyện (bốn dòng thơ đầu, từ “rằng”, hai dòng thơ cuối)

    +  lời của nhân vật: được đánh dấu bằng dấu hai chấm, dấu gạch ngang và trích nguyên văn lời nói của các nhân vật

    -  Dấu hiệu 2. Cách người kể gọi tên nhân vật, thuật lại nguyên văn cách xưng hô “chị” - “em” của nhân vật

    -  Dấu hiệu 3.  Người kể - tác giả không xưng “tôi” trong xuyên suốt nội dung tác phẩm.

     

     

     

  1.  Xác định số dòng thơ biểu đạt lời của mỗi nhân vật. Chỉ ra sự khác biệt về độ dài (tính bằng số dòng thơ) giữa lời thoại của hai nhân vật và giải thích sự khác biệt ấy.

     

    NHÂN VẬT

    THUÝ VÂN

    THUÝ KIỀU

    Số dòng thơ biểu đạt lời thoại

    4 dòng (thơ lục bát)

    38 dòng (thơ lục bát)

     

    Tỉ lệ trên toàn văn bản

    4/48

    38/48

     

    - Lời của nhân vật Thúy Kiều nhiều hơn so với lời Thúy Vân  vì:

    + Thúy Kiều là người trả lời, có lời đối thoại, độc thoại nội tâm. Kiều là người trong cuộc, trong tình thế phải người nhờ cậy, trông gửi, hi vọng Thúy Vân sẽ nhận lời giúp; Kiều  trình bày sự việc, câu chuyện đầy đủ để thuyết phục Thúy Vân đồng ý.

    + Thúy Vân là người nghe, chia sẻ nên chỉ cần hỏi han, gợi chuyện cho Kiểu bày tỏ.

    3. Vai trò lời thoại của Thuý Vân  đối với sự tiến triển của câu chuyện

    - Lời của Thuý Vân chỉ gói gọn trong 4 dòng thơ lục bát

    “Cơ trời dâu bể đa đoan

    Một nhà để chị riêng oan một mình

    Cớ chi ngồi n hẫn tàn canh?

    Nỗi riêng còn mắc mối tình chi đây?”

    - Lời “ân cần hỏi han” của Thúy Vân là một cách mang lại tình cảm chị em ấm áp đối với người chị đang rất mực cô đơn, với gánh nặng tinh thần chưa biết chia sẻ cùng ai.

    - Lời của Thúy Vân đã tạo tình huống, cơ hội tự nhiên cho Thúy Kiều kể chuyện, bày tỏ nỗi lòng.

    - Thuý Kiều được lời như cởi tấm lòng, mạnh bạo tự tin để trao duyên, nhờ em thay mình lấy Kim Trọng.

    - Thuý Vân chỉ “ân cần hỏi han” rồi lặng lẽ, chăm chú lắng nghe (không ngắt lời chị) nhờ đó câu chuyện và ý nguyện “trao duyên”  của Kiều được biểu đạt đầy đủ, trọn vẹn (đến mức nói xong nàng ngất đi).

     4. Nhận biết và phân tích được:

  1. Sự kết hợp tự sự với biểu cảm trong lời thoại của Thuý Kiều

    Lời thoại của Kiều trong văn bản là kết hợp tự sự với biểu cảm. Khi thì kể lại cho Thúy Vân nghe hoàn cảnh của mình để em có thể thông cảm, chấp nhận giúp mình. Khi thì bày tỏ cảm xúc, nội tâm buồn tủi, dằn vặt, đau đớn, xót xa.

  2. Nhận biết, đánh giá được sự chuyển đổi đột ngột đối tượng người nghe trong lời từ dòng thơ 741 đến dòng thơ 756 của Thuý Kiều

    “Trăm nghìn gửi lạy tình quân

    Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi”

    - Thuý Kiều đang nói Thuý Vân mà như đang nói với Kim Trọng (đối thoại với người nghe vắng mặt, thực chất cũng gần như độc thoại).

    “Phận sao phận bạc như vôi

    Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng”

    - Thuý Kiều đang nói Kim Trọng mà như đang nói với chính mình (độc thoại trong khi đối thoại)

    “Ôi Kim Lang! Hỡi Kim Lang!

    Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!”

    - Thuý Kiều đang nói với bản thân rồi lại đột nhiên nói vọng tới Kim Trọng. (đối thoại mà như độc thoại)

    => Dạng lời thoại như vậy có tác dụng thể hiện tâm trạng phức tạp của Thuý Kiều trong cuộc “Trao duyện”. Nguyễn Du đã hiểu rõ tâm trạng đó và miêu tả một cách tường tận, sinh động với khả năng thấu cảm của một nghệ sĩ thiên tài.

     5. Sự thay đổi trong tâm trạng của Thuý Kiều trước, trong và sau khi trao kỉ vật cho Thuý Vân:

    - Trước khi trao kỉ vật:

    + KIều một mình đắm chìm trong trạng thái bối rối, thao thức, đằn vặc cao độ:

    “Nỗi riêng riêng những bàng hoàng

    Dầu trong trắng đĩa, lệ càng thắm khăn”

    Kiều thức trắng với nỗi niềm chua xót, dòng lệ hai bên đã khô, không dứt đầm khăn

    -> Nỗi đau chua xót chưa tìm được phương kế nào, quanh quẩn, quẩn quanh, càng thêm rối rắm mà chỉ mình biết thôi.

    + Khi cơ hội đến từ lời “hỏi han” ân cần của Thuý Vân. Thuý KIều trước hết nói đến sự khó xử của mình:

    “Hở môi ra cũng thẹn thùng

    Để lòng thì phụ tấm lòng với ai”

    Lòng Kiều đang rối như tơ vò: nếu “hở môi” thì thẹn, mà không nói sẽ phụ tấm chân tình.

    + Sau đó là lời cậy nhờ tha thiết:

    “Keo loan chấp mối tơ thừa mặc em…”

    Kiều xin em hãy chắp mối tơ thừa, để trả nghĩa cho chàng Kim.

    - Khi trao kỉ vật:

    + Thuý Kiều nói rõ từng thứ một:

    “Chiếc vành với bức tờ mây

    Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa”

    * chiếc vành: vòng xuyến mà Kim Trọng tặng Thuý Kiều

    * bức tờ mây: bức chữ thề nguyền, giao ước kết đôi giữa hai người

    * phím đàn: phím đàn mà Thuý Kiều từng gảy cho Kim Trọng nghe

    * mảnh hương nguyền: mảnh hương trầm đốt trông đêm thề nguyền còn sót lại…

    -> Đó đều là những thứ vô cùng quý giá đối với Kiều, nhưng đã trao duyên thì đành phải trao kỉ vật làm tin.

    “Duyên này thì giữ, vật này của chung”

    + Thuý Kiều đã phải vượt lên trên sự dằn vặt, lưu luyến, tiếc nuối khi dùng đến các từ ngữ chỉ kỉ vật như “của chung”, “ngày xưa”; trong lời nói với Thuý Vân, nàng hình dung mai sau mình trở về như một hồn ma trong gió và cầu xin một niềm cảm thương, một ân huệ khiêm nhường nhất:

    “Dạ đài cách mặt khuất lời

    Rải xin chén nước cho người thác oan”

    -> Kiều đã ý thức được thân phận của mình, nàng đã tự khóc cho mình. Đó là tiếng khóc cho số phận

    - Sau khi trao kỉ vật:

    + Trao xong kỉ vật Kiều càng nghĩ nhiều đến Kim Trọng và tình yêu.

    “Trăm nghìn gửi lạy tình quân

    Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi”

    -> Tình cảm nàng dành cho Kim Trọng và mối tình đầu phải tính đến bằng “muôn vàn”; ân tình nàng dành cho Kim Trọng cũng không sao kể siết nên đã bái biệt bằng: “trăm nghìn… lạy”…

    + Chợt nghĩ đến phận mình, nàng lâm vào trạng thái tột cùng đau khổ, dằn vặt trước sự thật phũ phàng, mất mát không thể bù đắp

    “Phận sao phận bạc như vôi

    Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng”

    -> Kiều nhận ra tình yêu tan vỡ, tình yêu đã dang dở, hạnh phúc đã chia lìa, đó là một thực tại không thể cứu vãn

    + Nàng nức nỡ gọi tên Kim Trọng rồi nói lời vĩnh biệt xót xa

    “Ôi Kim Lang! Hỡi Kim Lang!

    Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!”

    -> Câu thơ như là một tiếng kêu thét, một lời gọi, lời than, với tiéng nấc nghẹn ngào, diễn tả nỗi đau tuyệt vọng lên đến tột đỉnh.

    => Có lẽ Thuý Kiều đã dành hết sự tỉnh táo cuối cùng để hoàn thành cái việc rất khó là thuyết phục Thuý Vân thay mình lấy Kim Trọng. Vì thế sau khi trao duyên, đối diện với Kim Trọng và với lương tâm thì đã quá sức chịu đựng của nàng.

    => Phải là người từng tích luỹ biết bao nhiêu “những điều trông thấy mà đau đớn lòng” trước những “bể dâu” và phải là người có “con mắt nhìn xuốt sáu cõi, tấm lòng nghĩ xuốt nghìn đời thì tác giả mới miêu tả được nỗi lòng Thuý Kiều sâu sắc, thấu tình đến vậy.

  1. Xác định chủ đề của văn bản "Trao duyên" và   vai trò văn bản thế nào trong việc góp phần thể hiện chủ đề chính của "Truyện Kiều".

    - Chủ đề chung của “Truyện Kiều”:  tiếng kêu đau thương về cuộc đời ba chìm bảy nổi của nàng Kiều

    - Chủ đề của văn bản Trao duyên: bi kịch trong tình yêu của Thúy Kiều - tiếng kêu trước nỗi đau đầu đời của nàng.

     -> Văn bản Trao duyên có vai trò quan trọng trong việc góp phần thể hiện chủ đề chung của Truyện Kiều: Nỗi đau này kéo theo nhiều nỗi đau khác trong suốt mười lăm năm lưu lạc của nàng Kiều;

    tạo ra sự liên kết giữa các nhân vật trong câu chuyện và giúp độc giả cảm nhận được sự đau khổ trong bi kịch tình yêu của Kiều, nhận thức được giá trị của tình yêu và sự chung thủy trong cuộc sống.

    1. LUYỆN TẬP

Bài tập sáng tạo:  Vẽ một bức tranh hay dựng một hoạt cảnh sân khấu hóa về cuộc trao duyên.

 

THPT Tân Thông Hội

Địa chỉ:

Đường Suối Lội, ấp Bàu Sim, xã Tân Thông Hội, Huyện Củ Chi, TP. Hồ Chí Minh

 

 

Điện thoại: 028.3796.18.48

Tập đoàn công nghệ Quảng Ích